Nhật Bản đang bước vào mùa thu, mùa cảnh sắc thiên nhiên thay đổi, cây lá khoác lên người đủ loại màu sắc, .. tạo cảm hứng cho con người sáng tác thơ văn ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi tình yêu … mùa nở rộ những hoạt động văn hóa, thể thao. Sau những ngày nóng bức của mùa hè, khí hậu trở nên mát mẻ, dễ chịu, khiến người ta có thể tập trung đọc sách nhiều hơn, lâu hơn.
Người Nhật Bản có thông lệ khuyến khích nhau đọc sách trong mùa thu, đặc biệt là trong “Tuần Lễ Đọc Sách (読書の週間)”, mỗi năm từ ngày 27/10 đến ngày 9/11. Năm nay (2021) là năm thứ 75 từ khi phong trào “Tuần lễ đọc sách” này được phát động. (Tham khảo trang mạng sau của Hiệp hội vận động phong trào đọc sách 読書推進運動協議会 http://www.dokusyo.or.jp/jigyo/jigyo.htm).
Trong cơ hội này, chúng tôi muốn chia sẻ với quý đồng hương tại Nhật về lòng ham mê đọc sách của người Nhật, mối liên hệ giữa việc đọc sách với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, lý do tại sao người Việt chúng ta cần phải đọc sách nhiều hơn, và cuối cùng là cuộc vận động đọc sách hằng ngày của Trường Nhật ngữ Đông Du, cũng như việc phát hành Bản Tin Hiệp Hội của Hiệp hội Người Việt tại Nhật.
TẠI SAO NGƯỜI NHẬT THÍCH ĐỌC SÁCH
Nước Nhật nổi tiếng là “Nước của những người đọc sách (本を読む国民の国)”. Vài con số cho thấy nhu cầu đọc sách báo của người Nhật như sau: Mỗi năm tại Nhật Bản có khoảng 70,000 loại sách được phát hành mới, trong đó đại biểu là 15,000 sách khoa học xã hội, 12,000 sách nghệ thuật – đời sống, 13,000 sách văn học, 5,000 sách khoa học thiên nhiên (theo Cục Thống kê của Bộ Tổng vụ Nhật Bản 総務省統計局 https://www.stat.go.jp/data/nihon/26.html) . Bên cạnh, có khoảng 2,800 loại/sê-ri tạp chí được phát hành mỗi năm; hơn 13,000 thư viện lớn nhỏ trên toàn quốc lưu trữ hơn 14 triệu ấn phẩm, tài liệu; và hơn 42,000,000 tờ báo phát hành hằng ngày; v.v. và v.v.
Trên trang mạng Trạm đọc có một bài viết phân tích khá hay và rõ ràng về lý do tại sao người Nhật có thú đam mê đọc sách báo như vậy (Tham khảo bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Xanh, Tháng 3/2012, http://tramdoc.vn/…/tai-sao-nguoi-nhat-me-doc-sach…). Xin trích dẫn vài đoạn như sau:
– Thực ra người Nhật đã có truyền thống đọc sách khủng lâu đời, ít ra từ thời Tokugawa 徳川 1600-1868. Trong thời đầu của Tokugawa Ieyasu 徳川家康, người thống nhất đất nước và lập nên triều đại Tokugawa hoà bình 265 năm lâu dài nhất lịch sử, thì chuyện một samurai có thể diễn đạt được ý tưởng của mình một cách mạch lạc trên giấy trắng mực đen là điều hi hữu, và tình trạng mù chữ là bình thường. Văn hoá Nhật Bản trước 1600 là văn hoá võ sĩ. Nhưng vào cuối thế kỷ 18, có thể nói một samurai mù chữ là một điều hụt hẫng đáng buồn, và tới giữa thế kỷ 19, tình hình lại khác nhau một trời một vực.
– Sự học tại Nhật Bản trước 1600 là độc quyền của giới quý tộc và tăng lữ, nhưng đến thời Tokugawa trở thành công việc của cả nước. Năm 1615, tướng quân Tokugawa Ieyasu, sau khi đã bình định được gần ba trăm phiên trấn (han藩), thiết lập nên một thể chế chính trị gần như liên bang, phát đi mệnh lệnh như một ‘big bang’ cho các đại danh, daimyō (大名), chủ phiên trấn và các võ sĩ, samurai: Điều 1 của mệnh lệnh nói: “bun (文) bên tay trái, bu (武) bên tay phải”.
– “Bun” là văn, sự học, là cây bút, trong khi “bu” là võ, nghệ thuật chiến tranh, từ đó chữ bushi là võ sĩ, bushido là võ sĩ đạo. Như thế Điều 1 nói “quyển sách bên tay trái, thanh gươm bên tay phải”, và văn đi trước võ, để có thể trị nước lâu bền. Các võ sĩ Nhật dần dần trở thành giai cấp cầm quyền có học. Ở Nhật Bản, cầm quyền là việc của giai cấp của samurai, cha truyền con nối, không phải việc của các Khổng nho như ở Trung Hoa hay Việt Nam, Triều Tiên. Khổng nho cao lắm chỉ được làm tư vấn với đồng lương thấp. Nhật Bản cũng có xếp hạng “sĩ, nông, công, thương” (shi, nō, kō, shō) dưới ảnh hưởng của Khống giáo Trung Hoa, nhưng ở đây sĩ không phải là nho sĩ, mà là võ sĩ.
– Các daimyō giờ đây phải học văn hoá, các loại khoa học và nghệ thuật quản lý đất nước. Một daimyō có học phải đọc sách hằng ngày. Để phục vụ cho việc học tập của daimyō, và các gia thần, thư viện được thành lập, sách vở được sưu tầm một cách qui mô, và trở thành biểu tượng cho tri thức. Thư viện bao gồm các loại sách về lịch sử Nhật Bản và Trung Hoa, các sách về Khổng giáo, Phật giáo và Thần giáo; sách về nghệ thuật quân sự, chiến lược quân sự, địa lý, thiên văn, kinh tế, toán học, y khoa và vô số sách về văn chương cổ điển. Bản thân tướng quân Ieyasu từng lập thư viện cho mình. Nhật Bản mỗi thời đều có những thư viện nổi tiếng, nhưng vào thời Tokugawa, Nhật Bản có nhiều thư viện nhất chưa bao giờ thấy trước đó.
– Thời Genroku 元禄 (1688-1704), được xem là thời vàng son của Tokugawa với kinh tế ổn định, nghệ thuật và văn chương phát triển, Nhật Bản đã có một hệ thống xuất bản sách hiện đại đáng ngạc nhiên, đặc trưng bởi sự hiện hữu của nhiều nhà xuất bản lớn, nhiều nhà minh hoạ sách có tiếng và nhiều nhà văn tên tuổi. Sách thường được xuất bản với số lượng đến hơn 10.000 bản! Đây là một con số “khủng” thời đó; Nhật Bản lúc đó chỉ có chừng 20 triệu người, vì thời Minh Trị dân số Nhật Bản khoảng 30 triệu. Năm 1692 Nhật Bản cũng đã từng có những bộ danh mục hàng chục tập về các sách in dành cho công chúng sử dụng. (Hiện nay VN chưa có được những bộ danh mục như thế tại các nhà sách). …
– Chúng ta người Việt Nam nên học văn hoá đọc sách độc đáo của người Nhật, óc tò mò của họ, học để sáng tạo cho đất nước. Nếu chỉ học với mục đích có được một nghề để sống, điều đó quý cho bản thân, gia đình, nhưng dễ dẫn đến sự tự mãn làm cho người ta không đọc sách nữa khi đã đạt được mục đích. Với tinh thần đó, Việt Nam chỉ có cá nhân chứ không có quốc gia.
– Chỉ có đọc sách với tinh thần người Nhật là muốn hiểu biết thế giới đã, đang nghĩ gì, làm gì để tái tạo tinh hoa thế giới và sáng tạo cái mới làm giàu đất nước Việt Nam, điều đó mới giúp cho chúng ta đọc sách mãi mãi không thôi, đọc cuồng nhiệt trong thế giới tri thức vô tận. Và chỉ trên cơ sở đó, văn hoá đọc mới có thể thăng hoa. Không phải chỉ vài ngàn, mà hàng triệu các bản sách hay mới có thể được đọc giả hâm mộ và háo hức đón nhận. Và cũng chỉ trên cơ sở đó, nhân dân mới nhanh chóng ấm no, đất nước mới phú cường, giang san mới bền vững.
ĐỌC SÁCH: KHỞI ĐIỂM CỦA TIẾN TRÌNH KHAI D N TRÍ, CHẤN DÂN KHÍ, HẬU DÂN SINH
Có thể nói Nhật Bản là nước Á Đông đầu tiên du nhập văn minh, khoa học, kỹ thuật hiện đại của các nước phương Tây để canh tân đất nước, phát triển kinh tế, xã hội.
Các samurai vừa giỏi đánh kiếm múa đao, vừa văn hay chữ tốt … cũng là những người sớm nhận thức được rằng chính quyền Mạc Phủ không đủ sức đương đầu với các nước phương Tây, và nếu giữ nguyên tình trạng bang phiến khiến nội lực trong nước bị phân tán, và chính sách bế quan tỏa cảng đối với bên ngoài, – thì không thể tránh được bị các cường quốc phương Tây xâm chiếm, chi phối. Vì vậy, sau khi giật mình nghe tiếng đại pháo từ con tàu đen bọc sắt chạy bằng hơi nước của hải quân Mỹ do Thống đốc Matthew C. Perry tại cảng Uraga năm 1853, các samurai của phiên Satsuma 薩摩藩và Choushu 長州藩 đã quên mối thù địch đã có từ lâu, để liên minh với nhau nhằm lật đổ chính quyền Mạc Phủ, thành lập thể chế quân chủ tập trung, đẩy mạnh công cuộc canh tân đất nước. Năm đầu của triều đại Minh Trị (1868) cũng là năm có trận chiến quyết liệt (gọi là Trận chiến Mậu Thìn 戊辰戦争), chấm dứt thời Mạc Phủ kéo dài suốt hơn 260 năm.
Có thể nói, tính tò mò, thích tìm hiểu, thích tra cứu, thích đọc sách, luôn trau dồi, luyện tập, thăng tiến, v.v. của người Nhật Bản đã là động lực thúc đẩy phong trào Khai Hóa Văn Minh 文明開化và là nền tảng phát triển kinh tế xã hội Nhật Bản từ thời Minh Trị (1868~) . (Chú thích: Bunmei Kaika 文明開化, cùng với khẩu hiệu Phú Quốc Cường Binh 富国強兵, và Thực Sản Hưng Nghiệp 殖産興業, là 3 khẩu hiệu/mục tiêu chính của thời Minh Trị Duy Tân).
Trong khi đó, tại Việt Nam thì thế nào ? – Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, lập nên nhà Nguyễn. Dù các vua nhà Nguyễn cũng có một số cải cách về giáo dục, sửa đổi cách tuyển chọn nhân tài qua các cuộc thi Hương, thị Hội, thi Đình … nhưng nội dung chủ yếu là vẫn việc học từ chương, lấy Khổng Nho, ngâm nga thi phú là chính, chứ không phải là việc học “thực học”, dựa trên khoa học thực nghiệm, để mở mang kiến thức, giúp quán triệt các nguyên tắc biến chuyển của vũ trụ, vận hành xã hội, … làm nền tảng cho việc phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
Đầu thế kỷ 19, Việt Nam cũng như Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, v.v. đều bị áp lực từ các nước Tây phương đòi phải mở các cửa cảng cho tàu bè qua lại thông thương, cho phép các giáo sĩ truyền đạo, v.v. Nhưng trong lúc các samurai thời Mạc Phủ của Nhật Bản, tay trái cầm sách, tay phải cầm gươm, ý thức được nhu cầu phải “thực học” để canh tân đất nước, thì các vua quan nhà Nguyễn vẫn khăng khăng cho rằng nước Tàu là nước mạnh, dân Tây là man di; bàn đến việc đời, việc nước thì chỉ biết đem chuyện Tàu ra làm chuẩn mực. Các bài điều trần và phúc trình đầy tâm huyết của cụ Nguyễn Trường Tộ dâng lên vua Tự Đức vào những năm 1861~1871 để đề nghị cải cách từ hành chánh đến giáo dục, võ bị… đều không được vua quan triều đình Huế ngó ngàng, quan tâm, suy xét. Đại pháo của Thống đốc Perry năm 1853 tại cảng Uraga đã làm thức tỉnh các võ sĩ Mạc Phủ, nhưng đại pháo của tướng Genouilly năm 1847 tại Đà Nẵng đã không đủ sức làm thức tỉnh vua quan thời Thiệu Trị.
Vì thiếu kẻ sĩ có tầm hiểu biết, nhìn xa, thấy rộng, nên các triều nhà Nguyễn đã bỏ mất cơ hội canh tân đất nước, loay hoay với việc dẹp loạn nổi lên khắp nơi trong nước, trở thành miếng mồi ngon cho chính sách thực dân, đế quốc của Pháp. Vì vậy, giữa thế kỷ 19, trong khi nước Nhật chuyển mình, trở thành một cường quốc tại phương Đông, thì Việt Nam ta bị Pháp chiếm làm thuộc địa, và từ đó phải trải qua cả thế kỷ đấu tranh giành độc lập, rồi chiến tranh quốc-cộng huynh đệ tương tàn, ngoại bang chi phối, nhân tâm phân hóa, xã hội lạc hậu, … kéo dài mãi cho đến ngày nay.
Sau gần 40 năm từ khi Nhật Bản chính thức bước vào thời đại Minh Trị Duy Tân, năm 1905, các cụ Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Đặng Tử Kính đã lặn lội đến Nhật, khởi xướng Phong trào Đông Du khuyến khích thanh niên Việt sang Nhật học hỏi những điều hay của Nhật. Rồi năm 1906, cụ Phan Châu Trinh cũng sang Nhật cùng với cụ Phan Bội Châu để tìm phương cách giành lại độc lập, chủ quyền cho dân tộc. Cả hai cụ Phan đều hiểu là cần phải khai dân trí (bỏ lối học từ chương, áp dụng lối học thực dụng, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan), chấn dân khí (nâng cao ý thức tự lực, tự cường, không ỷ lại vào người khác), và hậu dân sinh (phát triển kinh tế, giúp cải thiện, nâng cao mức sống người dân).
Bước sang thế kỷ 21, chúng ta thấy tại Việt Nam vẫn còn nhu cầu phải khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Việc học trong nước đã có nhiều thay đổi, nhiều trường tư thục xuất hiện, nhưng nội dung học vẫn chưa có tính chất thực dụng, vẫn còn hiện tượng nhiều người học chỉ để lấy bằng cấp, nhiều tiến sĩ giấy, học sinh phải học ngoài giờ tại nhà thầy cô giáo để có điểm cao trong những kỳ thi, v.v.
Người Việt tại Nhật may mắn hơn đồng bào trong nước, được sống trong xã hội dân chủ, tự do, có điều kiện dễ dàng để tự lập, tự cường. Nếu chúng ta muốn học hỏi, mở mang kiến thức thì xã hội mở ra cho chúng ta muôn vàn cơ hội. Chúng ta học tiếng Nhật để dễ dàng hơn trong việc trao đổi với người Nhật chung quanh, vui thích hơn với việc làm hằng ngày, dễ thăng tiến hơn trong công việc, và để cuộc sống hằng ngày trở nên thú vị hơn. Chúng ta cũng học tinh thần ham học, cầu tiến, cần cù, chăm chỉ, nhẫn nại, … của người Nhật để tu luyện bản thân mình sao cho cuộc sống có ý nghĩa hơn. Chúng ta học lịch sử để hiểu rõ hơn những nỗ lực, hy sinh vì dân tộc của các bậc tiền nhân Phong trào Đông Du, Phong trào Duy Tân, v.v. để từ đó càng thấy yêu quê hương, yêu dân tộc mình hơn. Chúng ta cũng học những điều hay của xã hội Nhật, của người dân Nhật, kinh nghiệm canh tân đất nước, kiến thức khoa học, kỹ thuật hiện đại của người Nhật, v.v. để có thể đóng góp hiệu quả hơn cho việc phát triển kinh tế, xã hội của quê hương. Học trên sách vở, học ngoài xã hội, nơi nào chúng ta cũng có thể học.
Việc đọc sách là một phương cách dễ dàng nhất giúp chúng ta tiếp cận với những tư tưởng, những kiến thức, những cảm xúc … mà người viết đã tóm tắt ghi ra trên giấy một cách rõ ràng, thứ tự, lớp lang. Tuy nhiên, đối với người chưa có thói quen đọc sách thì tập quán đọc sách không dễ có được ngay trong sáng chiều, mà cần phải chịu khó tập luyện hằng ngày trong một thời gian.
Để giúp chúng ta có thói quen đọc sách hằng ngày, và mở mang kiến thức, – Trường Nhật ngữ Đông Du đã lập Câu lạc bộ Đọc sách. Mỗi ngày trong tuần, từ ngày thứ Hai đến thứ Bảy, chúng ta có thể dành 30 phút để vào mạng, kết nối với câu lạc bộ này qua đường link sau (tham khảo poster đính kèm):
Ngoài ra, Hiệp hội Người Việt tại Nhật cũng sẽ phát hành định kỳ Bản tin Hiệp hội, ba tháng một lần từ tháng 9/2021 này, với mong muốn chia sẻ với các đồng hương những bài ký sự, bình luận, những thông tin giúp chúng ta hiểu biết nhiều hơn về cộng đồng người Việt tại Nhật, về dân tộc Nhật Bản, quốc gia Nhật Bản, và giúp thắt chặt thêm mối liên hệ hữu hảo giữa hai dân tộc Nhật-Việt.